Qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong thời gian qua, nhận thấy công tác điều tra các vụ án về tham nhũng, chức vụ trên địa bàn thành phố còn tồn tại một số khó khăn, vướng mắc, cụ thể như sau:
I. Một số hạn chế, khó khăn, vướng mắc:
1. Các vụ án tham nhũng, chức vụ thường có tính chất phức tạp, đối tượng có trình độ chuyên môn cao, hiểu biết phát luật; có chức vụ, quyền lực chính trị và đặc biệt là có mối quan hệ xã hội; thủ đoạn phạm tội tinh vi, sự việc phạm tội xảy ra nhiều năm mới bị phát hiện; hành vi phạm tội liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều địa phương;…khối lượng công việc điều tra nhiều, đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải đầu tư nhiều thời gian, nhân lực để điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh sự thật khách quan của vụ án, nên việc điều tra, xử lý đối với những vụ án này gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên thực tiễn hiện nay thì năng lực, trình độ, kỹ năng nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm, bản lĩnh về đạo đức nghề nghiệp của một số cán bộ Điều tra viên, Kiểm sát viên còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ…
2. Việc xác định đường lối với các vụ án tham nhũng, đặc biệt là các vụ án có liên quan tới các lĩnh vực về tài chính, ngân hàng, đất đai, xây dựng cơ bản.. cũng còn gặp nhiều khó khăn do quan điểm khác nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng về xác định tội danh, đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật dẫn đến giải quyết vụ án bị kéo dài, án còn bị trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Công tác phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong một số vụ án, vụ việc còn chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến tiến độ, chất lượng giải quyết vụ án, vụ việc còn hạn chế. Thực tế có một số vụ việc Thanh tra chuyển cho Cơ quan điều tra (CQĐT) với hồ sơ còn thiếu dẫn đến tiến độ giải quyết kiến nghị khởi tố còn chậm, nhiều vụ việc không đủ căn cứ để khởi tố vụ án.
3. Thực tiễn trong giải quyết vụ án các vụ án tham nhũng chức vụ, đặc biệt là các vụ án có tài sản bị xâm hại là những dự án đầu tư, công trình xây dựng, đất đai, nhà công sản…việc điều tra làm rõ những sai phạm trong quá trình đầu tư, xây dựng các dự án lớn ( như vụ Hòa lien 3,4 ; vụ việc tại khu tái định cư An cư 5; vụ nghĩa trang Hòa Sơn ) gặp rất nhiều khó khăn, chủ yếu chỉ làm rõ những sai phạm trong quy trình, thủ tục đấu thầu... Trong khi đó năng lực và kiến thức về xây dựng, quản lý đất đai, tài chính ngân hàng của cán bộ các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn còn hạn chế chưa cập nhập với tình hình mới. Do đó dẫn tới việc yêu cầu điều tra không cụ thể còn chung chung vì nhận thức và kiến thức về xây dựng chưa có nhiều.
4. Trong quá trình giải quyết các vụ, việc này thường phải trưng cầu giám định hoặc định giá tài sản để xác định thiệt hại. Kết luận giám định, giám định tài sản là căn cứ quan trọng để xác định tội danh, mức độ thiệt hại trong giải quyết vụ án. Mặc dù cơ quan giám định có nhiều cố gắng, nhưng vì nhiều lý do, nên kết quả kết luận giám định chưa đạt yêu cầu, thời gian giám định kéo dài, một số kết luận giám định còn chung chung. Bên cạnh đó, còn có những trường hợp trưng cầu giám định chưa kịp thời hoăc nội dung giám định chưa phù hợp dẫn đến phải giám định bổ sung, giám định lại, ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết vụ án. Theo phản ánh của Cơ quan điều tra thì việc thực hiện giám định trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, xây dựng... thường rất chậm, kéo dài, không đáp ứng yêu cầu về thời gian theo yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng, nên ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết vụ án. Việc xác định thiệt hại về tài sản trong một số vụ án tham nhũng bắt buộc phải tiến hành trưng cầu giám định về tài chính kế toán, giám định kỹ thuật, giám định chất lượng công trình. Kết luận giám định trong những trường hợp này là nguồn chứng cứ quan trọng chứng minh tội phạm và nhiều khi là nguồn chứng cứ duy nhất. Nội dung yêu cầu giám định trong các vụ án tham nhũng, nhất là về xây dựng cơ bản gồm nhiều vấn đề phức tạp, có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau (tài chính, xây dựng, kỹ thuật chuyên ngành...), cần phải có sự điều phối, hợp tác của nhiều ngành khác nhau. Điển hình như vụ Hòa Liên khi Thanh tra Thành phố chuyển hồ sơ qua CQĐT thì CQĐT trao đổi vơi các trung tâm giám định chuyên về xây dựng ở TP và cấp Trung ương nhưng đều bị từ chối ( trao đổi bằng văn bản không bằng quyết định trưng cầu giám định ). Sau một thời gian không tiến hành được, CQĐT moi quyết định trưng cầu giám định Trung tâm giám định chất lượng xây dựng, sau đó ra bản kết luận giám định. Mặc dù là cơ quan giám định độc lập tuân theo pháp luật nhưng về mặt quản lý hành chính Trung tâm là đơn vị trực thuộc Sở xây dựng TP Đà nẵng mà Sở xây dựng là đơn vị có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án đã được khởi tố, do vây vẫn có nhiều quan điểm cho rằng việc kết luận giám định có đảm bảo khách quan hay không?
5. Công tác phát hiện, kê biên, phong tỏa và thu hồi tài sản các vụ án tham nhũng , trong những năm qua các cơ quan tiến hành tố tụng TP Đà nẵng đã làm rất tốt thu hồi đạt tỷ lệ cao trong các vụ án vừa qua . Tuy nhiên cũng gặp nhiều khó khăn vướng mắc như vụ Bùi Thị Hòa phạm tội “Tham ô tài sản” , ông Nguyễn Điểm là giám đốc chỉ đạo Bùi thị Hòa sửa chữa chứng từ cùng chiếm đoạt số tiền 23 Tỷ đồng, trước khi khởi tố vụ án thì ông Điểm chết, VKS xác định ông Điểm có lien quan đến việc chiếm đoạt tài sản nên yêu cầu CQĐT kê biên tài sản của gia đình ông Điểm là khu đất có giá trị rất lớn, dẫn tới việc gia đình ông khiếu nại vượt cấp kéo dài trong khi vụ án chưa xét xử phải trả hồ sơ điều tra bổ sung kéo dài , chưa xác định được số tiền ông Điểm chiếm đoạt là bao nhiêu. Mặc dù các cơ quan tố tụng tích cực truy thu tài sản chiếm đoạt nhưng chỉ là một phần trong khối tài sản lớn của gia đình ông Điểm, mặt khác pháp luật chưa có qui định rõ ràng việc kê biên từng phần nên gặp nhiều khó khăn trong công tác thu hồi cho đến khi Thi hành án. Do đó với thực tiễn hiện nay và sắp đến với thủ đoạn tinh vi trong việc tẩu tán tài sản đối voi ngươi phạm tội khi bị pháp luật sờ gáy gặp nhiều khó khăn. Đơn cử như nhiều vụ án tham nhũng liên quan đến đất đai, dự án nhà ở thì việc kê biên, phong tỏa cũng gặp khó khăn do tài sản đã được chuyển quyền sỡ hữu qua nhiều người. Các biện pháp pháp luật quy định để thu hồi tài sản tham nhũng chưa bảo đảm tính kịp thời, thường chỉ được áp dụng khi đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can, người đã bị kết án. Nhiều trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng chủ yếu tập trung vào việc thu thập chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội mà chưa chú trọng thu thập chứng cứ để giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự; chưa kịp thời áp dụng các biện pháp kê biên, thu giữ, phong tỏa tài sản dẫn đến các đối tượng có điều kiện tẩu tán tài sản. Liên ngành TP Đà năng đã ban hành quy chế số 01/ QC ngày 14/01/2020, là quy chế mới qui định việc phong tỏa, tạm dừng giao dịch các tài sản của các đối tượng đang bị tố cáo liên quan đến các hành vi phạm tội trước khi khởi tố vụ án, mặc dù mang tính quyết liệt, đột phá nhưng vẫn dễ bị các đối tượng liên quan chính khiếu nại về thiệt hại khi CQĐT xử lý dỡ bỏ phong tỏa tài sản, không khởi tố vụ án hình sự
II. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc
1. Nhận thức về quan điểm giải quyết của các vụ án cụ thể chưa được các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng quan tâm, nhất là khi chưa thống nhất được voi nhau về hướng xử lý, có lúc có nơi đánh giá không đúng mức, không xem xét toàn diện nên trong một số trường hợp dẫn đến cứng nhắc, thiếu linh hoạt thâm chí bỏ mặc cho cơ quan điều tra tiến hành thu thập chứng cứ trong khi không có yêu cầu cụ thể. Do đó việc phối hợp không chặt chẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng điều tra, để kéo dài xử lý đối với vụ việc phạm tội
2. Tính chất các vụ việc tham những chức vụ ngày càng phức tạp trong khi đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên chưa đủ và việc trang bị kiến thức về quản lý kinh tế, xây dựng, đất đai… chưa nhiều nên cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng nghiên cứu hồ sơ trong các giai đoạn tố tụng. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật mới, nhiều văn bản hướng dẫn còn chồng chéo nhất trong trong lĩnh vực kinh tế, dẫn đến việc nghiên cứu nhận thức, vận dụng đánh giá để áp dụng trong thực tiễn xử lý các vụ việc giữa CQĐT và VKS, Tòa án không thống nhất nhau (kể cả khi họp lien ngành nhiều lần). Vì vậy tình trạng kéo dài việc xử lý thông tin tham nhũng chức vụ, việc trả hồ sơ điều tra bổ sung hoặc yêu cầu bổ sung chứng cứ trước khi phê chuẩn, yêu cầu rút quyết định tố tụng đã ký vẫn còn do các nguyên nhân trên
3. Các đối tượng trong các vụ việc tham nhũng chức vụ luôn có trình độ học thức, chuyên môn nghiệp vụ cao và địa vị xã hội, có mối quan hệ quen biết trong xã hội rộng, luôn tìm cách né tránh, khai báo quanh co, thủ đoạn tinh vi nên việc đấu tranh làm rõ hành vi phạm tội của các đối tượng này hết sức khó khan, vất vả. Hơn nữa với áp lực trách nhiệm trong hoạt động tố tụng hình sự lớn nên tâm lý “an toàn” hoặc cầu toàn trong thu thập chứng cứ, trong quan điểm đề xuất xử lý của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán ở các cơ quan tố tụng trong một số vụ việc cụ thể vẫn còn ảnh hưởng đến tiên độ giải quyết vụ việc
4. Nhận thức của lãnh đạo, cán bộ của nhiều ngành về vai trò, trách nhiệm của ngành mình đối với công tác giám định tư pháp trong các vụ việc tham nhũng chức vụ còn hạn chế, chưa đầy đủ. Các cán bộ ở các cơ quan tiến hành tố tụng còn thiếu kiến thức cần thiết về giám định tư pháp, thiếu sự chủ động, quyết đoán, chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm của mình trong việc đánh giá, sử dụng kết luận giám định. Thiếu quy định cụ thể về căn cứ, cách thức trưng cầu giám định để bảo đảm việc trưng cầu giám định được đúng đắn, đáp ứng yêu cầu của vụ việc cần giải quyết
5. Thiếu cơ chế phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với các bộ, ngành chủ quản về nhu cầu giám định của hoạt động tố tụng để làm cơ sở cho việc xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức, con người làm giám định tư pháp ở các lĩnh vực, phục vụ cho hoạt động tố tụng nói chung, giải quyết án tham nhũng nói riêng. Thiếu cơ chế kiểm tra, xác định và làm rõ trách nhiệm của từng cơ quan chức năng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cả các ngành, cơ quan chuyên môn được trưng cầu giám định) trong quá trình trưng cầu, tiếp nhận trưng cầu, tổ chức thực hiện giám định và đánh giá, sử dụng kết luận giám định trong quá trình giải quyết các vụ án.
III. Một số vấn đề lưu ý khi đề ra các yêu cầu điều tra trong giải quyết các vụ án tham nhũng chức vụ
1. Tài sản bị tội phạm chiếm đoạt trong các vụ án tham nhũng là đặc biệt lớn, đối tượng phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn, người có chuyên môn nghiệp vụ nên thường sử dụng nhiều phương thức , thủ đoạn khác nhau để che dấu hành vi phạm tội, che giấu nguồn gốc hình thành tài sản do phạm tội mà có, che dấu đường đi của dòng tiền và việc sử dụng tiền, nên rất khó phát hiện, thu hồi ( tỷ lệ thu hồi toàn quốc chỉ khoảng 43 %). Do đó, để tăng cường thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, chức vụ, thì ngay từ đầu khi khởi tố vụ án, Kiểm sát viên phải kịp thời đề ra các yêu cầu điều tra nhằm xác minh làm rõ thiệt hại về tài sản do tội phạm gây ra, tài sản liên quan đến hành vi phạm tội và việc sử dụng tài sản, tài sản thuộc sỡ hữu của đối tượng phạm tội hoặc đã bị chuyển giao bất hợp pháp cho người khác, nhằm che giấu, tẩu tán tài sản do phạm tội mà có; Viện kiểm sát cần chủ động phối hợp với Cơ quan điều tra để đề ra các yêu cầu, biện pháp nhằm tăng cường thu hồi tài sản trong quá trình điều tra vụ án. Hiện nay các cơ quan liên ngành thành phố Đà nẵng đã có ký kết quy chế số 01/ 2020 về phong tỏa tài sản của các đối tượng bị tố cáo có dấu hiệu tội phạm trong giai đoạn giải quyết tin báo tố giác, do đó CQĐT và VKS cần bám sát quy chế này, tùy từng trường hợp cụ thể để đề ra yêu cầu điều tra kịp thời phong tỏa, tạm dừng giao dich tài sản để tránh đối tượng phạm tội tẩu tán.
2. Để đề ra các yêu cầu điều tra nhằm làm rõ hành vị phạm tội, yếu tố lỗi của bị can và đồng phạm, làm rõ vai trò, trách nhiệm của những người liên quan trong vụ án, Kiểm sát viên ngoài việc nắm chắc tình tiết vụ án, cần phải căn cứ vào đặc điểm, hành vi, phương pháp, thủ đoạn phạm tội đối với từng loại tội phạm cụ thể, từ đó đề ra các yêu cầu điều tra có tính sát hợp, cụ thể, mang tính định hướng điều tra, như : Đối với tội phạm xảy ra trong lĩnh vực ngân hàng, đối tượng phạm tội là các cán bộ ngân hàng, các đối tượng phạm tội có quan hệ tín dụng với ngân hàng, thường thực hiện hành vi vi phạm quy trình, quy định về cấp tín dụng, về kiểm tra, giám sát sau cho vay, dẫn đến các đối tượng phạm tội khác lợi dụng, gây hậu quả thiệt hại đến tài sản của ngân hàng, khách hàng. Do đó, để làm rõ vai trò, vị trí, trách nhiệm của bị can , người liên quan, yếu tố lỗi, ngoài việc thu thập đầy đủ hồ sơ, tài liệu liên quan đến cấp tín dụng, các tài liệu, chứng từ liên quan đến giải ngân, đến đường đi của dòng tiền sau khi giải ngân, Kiểm sát viên cần yêu cầu thu thập đầy đủ các tài liệu về quy định, quy chế, quyết định về cấp tín dụng của tổ chức tín dụng ( nơi bị can, người liên quan công tác, nơi tội phạm xảy ra ) về phân định trách nhiệm thẩm định, xét duyệt hồ sơ, quyết định cấp tín dụng, các quy định về kiểm tra sử dụng tiền vay, quản lý, xử lý tài sản bảo đảm; phải yêu cầu thu thập đầy đủ quyết định của các tổ chức tín dụng đối với việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, phân công trách nhiệm cụ thể đối với bị can và những người liên quan. Trong nhiều vụ án, qua phân tích nguồn tài liệu thu thập nêu trên đã thu được chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội, yếu tố lỗi của bị can và xử lý đồng phạm.
3. Các vụ án kinh tế, tham nhũng thường có số lượng bị can và đối tượng liên quan nhiều, chẳng hạn như vụ Nguyễn Xuân Phú và các đồng phạm phạm tội “ Tham ô tài sản “ thì để tránh việc xử lý tràn lan, nhưng không bỏ lọt tội phạm, cần phân loại nhóm đối tượng khởi tố, nhóm đối tượng tuy có vi phạm nhưng không phải là tội phạm ( đó là các kế toán viên qua rà soát hàng năm bảng kê khống nhập dầu DO không phát hiện được việc kê khống này vì Phú là kế toán trưởng cùng các bị can khác đã hợp thức chứng từ một cách tinh vi). Do đó, Kiểm sát viên cần phải đề ra các yêu cầu điều tra thu thập tài liệu, chứng cứ làm rõ sai phạm, vị trí, trách nhiệm của các đối tượng liên quan đến hành vi phạm tội của các bị can đã khởi tố. Trên cơ sở kết quả thực hiện yêu cầu điều tra, đánh giá đúng bản chất hành vi sai phạm của các đối tượng liên quan, làm căn cứ phân loại nhóm đối tượng (khởi tố, không khởi tố ), Kiểm sát viên cần tiếp tục có yêu cầu điều tra mới để củng cố, bổ sung tài liệu, chứng cứ bảo đảm cho việc phê chuẩn quyết định khởi tố, cũng như xử lý các đối tượng liên quan thuộc diện không khởi tố là có căn cứ, đúng pháp luật.
Tóm lại, việc đề ra bản yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT thực hiện đầy đủ, triệt để yêu cầu điều tra là nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên xuyên suốt trong hoạt động điều tra. Qua việc đề ra yêu cầu điều tra, các biện pháp bảo đảm thực hiện, Kiểm sát viên thể hiện vai trò, trách nhiệm đối với việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân, thể hiện bản lĩnh, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thái độ, trách nhiệm tận tụy đối với công việc, tinh thần đấu tranh với sai phạm, tội phạm của mỗi Kiểm sát viên. Việc nâng cao chất lượng bản yêu cầu điều tra, các biện pháp bảo đảm thực hiện các yêu cầu của Viện kiểm sát cũng là một trong những biện pháp có tính chất phòng ngừa oan, sai, sai phạm, tiêu cực trong nội bộ các cơ quan tư pháp, bảo vệ cán bộ, Kiểm sát viên trong ngành Kiểm sát.
IV. Một số đề xuất kiến nghị
1. Ban Chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham nhũng tiếp tục quan tâm chỉ đạo các ngành, cơ quan nhà nước ở Đà nẵng có liên quan có biện pháp phối hợp với các cơ quan tư pháp dịa phương Đà nẵng ( thông qua Ban nội chính thành phố ) kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong giải quyết các vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, thuộc diện Thành ủy theo dõi chỉ đạo (cần định kỳ họp liên ngành giải quyết ). Đẩy mạnh việc hoàn thành pháp luật về phòng, chống tham nhũng bảo đảm khả thi và hiệu quả. Như hiện nay chủ thể của tội “tham ô” theo Luật phòng chống tham nhũng rất rộng, bao hàm cả trong hoạt động kinh tế tư nhân, dó đó việc xử lý đối với các đối tượng chiếm đoạt tài sản trong các công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân về tội “tham ô tài sản” là rất nặng và không đúng với bản chất của tội tham nhũng chức vụ ( những năm trước đây chỉ xử tội lừa đảo hoặc lạm dụng chiếm đoạt tài sản ). Do đó Liên ngành TW cần sớm có thông tư hướng dẫn chủ thể của tội “tham ô” trong lĩnh vực kinh tế tư nhân theo Luật phòng chống tham nhũng mới phù hợp đó là : Các tổ chức tín dụng; Các tổ chức phi chính phủ được chủ tịch UBND tỉnh, thành phố phê chuẩn; Các Công ty tư nhân đại chúng đang thực hiện giao dịch trên sàn chứng khoán . Mặt khác cần đẩy nhanh việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật, khắc phục những sơ hở trong quản lý xã hội – kinh tế và phòng, chống tham nhũng, nhất là các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng.Có quy định mở về hình phạt xét xử với mức thấp nhất khi người phạm tội tham nhũng khắc phục toàn bộ hoặc phần lớn tài sản chiếm đoạt, như vây mới khuyến khích người phạm tội nộp lại tiền chiếm đoạt để hưởng sự khoan hồng của pháp luật
2. Sửa đổi, bổ sung Luật giám định tư pháp và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong phòng, chống tham nhũng. Cần quy định rõ chế độ, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức giám định, giám định viên, xây dựng đầy đủ, cụ thể quy trình, quy chuẩn giám định tư pháp, tập trung đầu tư cho lĩnh vực giám định tài chính - ngân hàng, đầu tư xây dựng cơ bản, đất đai. Có hướng dẫn cụ thể của liên ngành TW về “thiệt hại khác” trong điều 356 BLHS ( Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong thi hành công vụ ) đối với những thiệt hại phi vật chất hoặc khi không thể giám định được thiệt hại
3. Tiếp tục kiện toàn bộ máy tổ, cán bộ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, đơn vị có chức năng phòng, chống tham nhũng; bố trí những người có phẩm chất, năng lực, bản lĩnh vào vị trí người đứng đầu các cơ quan, đơn vị chống tham nhũng ( cơ quan điều tra, truy tố, xét xử ); ưu tiên chọn lọc những cán bộ, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán tinh nhuệ, có kiến thức về quản lý kinh tế rộng, bản lĩnh, trách nhiệm để giải quyết các vụ án lớn, dư luận xã hội quan tâm;thực hiện nghiêm công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, đồng thời, bảo đảm kinh phí, trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các cơ quan, đơn vị chức năng phòng, chống tham nhũng, có chính sách đãi ngộ hợp lý để cán bộ trực tiếp làm việc trong các cơ quan này toàn tâm, toàn ý, giữ vững bản lĩnh
4. Liên ngành tố tụng ở cấp Trung ương cần sớm ban hành hướng dẫn về căn cứ, cách thức trưng cầu các tổ chức, cá nhân có năng lực làm giám định, bảo đảm tính độc lập, khách quan của hoạt động giám định. Hướng dẫn việc xem xét, đánh giá và sử dụng kết luận giám định trong hoạt động tố tụng để bảo đảm việc giải quyết các vụ án, nhất là án tham nhũng được chính xác, khách quan và đúng pháp luật. Sớm ban hành quy chế phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với các cơ quan quản lý; giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với các tổ chức giám định tư pháp, trong đó xác định rõ nội dung, cách thức, cơ chế phối hợp cho phù hợp với tính chất đặc thù của giám định tư pháp.
Trần Hoài Nam- Phó Viện trưởng