menu_WAR_vienkiemsatportlet_INSTANCE_hKWBd2nFDgz3
Tìm hiểu về “Hợp đồng thương mại điện tử”
Đăng ngày 24-11-2022 05:27

Trong điều kiện công nghệ thông tin phát triển như hiện nay, giao dịch hợp đồng điện tử đang ngày được các doanh nghiệp quan tâm, bởi tiết kiệm được thời gian và chi phí giao dịch, dễ dàng trao đổi dữ liệu và chia sẻ thông tin. Vậy hợp đồng điện tử là gì, quy trình giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử như thế nào?  Phạm vi và hiệu lực của hợp đồng điện tử.

Hợp đồng thương mại điện tử là hợp đồng thương mại được xác lập, thực hiện thông qua các phương tiện điện tử. Để hiểu cụ thể về chính xác hơn về định nghĩa hợp đồng thương mại điện tử, ta có thể tham khảo các định nghĩa trong luật pháp của nước ta.

Theo qui định tại điều  33Luật Giao dịch điện tử năm 2005 thì : “Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu theo quy định của Luật này.”. Hay trong Luật thương mại 2005 cũng chỉ ra: “Hợp đồng thương mại là hình thức pháp lý của hành vi thương mại, là sự thỏa thuận giữa các chủ thể kinh doanh với nhau nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện hoạt động thương mại.”

Hợp đồng thương mại được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu số theo quy định của Luật Giao dịch điện tử Việt Nam thì được tính là hợp đồng thương mại điện tử, hợp đồng thương mại điện tử vẫn có đầy đủ các giá trị về pháp lý.

Hợp đồng thương mại điện tử giữ vai trò là căn cứ để xác định sự thỏa thuận giữa các chủ thể kinh doanh với nhau nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện hoạt động thương mại.

Tại điều  24, Luật Thương mại 2005 qui định về hình thức hợp đồng mua bán hàng hoá nêu rõ: “1. Hợp đồng mua bán hàng hoá được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.

2. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó.

Tại các điều 10,11,12 tại Luật Giao dịch điện tử 2005 qui định: “Thông điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác. Thông tin trong thông điệp dữ liệu không bị phủ nhận giá trị pháp lý chỉ vì thông tin đó được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu. Trường hợp pháp luật yêu cầu thông tin phải được thể hiện bằng văn bản thì thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng yêu cầu này nếu thông tin chứa trong thông điệp dữ liệu đó có thể truy cập và sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết.

Đối tượng của hợp đồng thương mại điện tử là những hàng hóa, dịch vụ mà các chủ thể có nhu cầu trao đổi với nhau. Cần lưu ý các hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ này không thuộc nhóm bị pháp luật cấm hay hạn chế kinh doanh do Chính phủ quy định cụ thể.

Về cách thức giao kết và thực hiện hợp đồng theo Điều 385 Bộ luật Dân sự 2015 thì

“Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”, hợp đồng thương mại điện tử cũng phải tuân thủ cơ sở này. Quy trình giao kết của hợp đồng thương mại điện tử có thể được tiến hành một phần hoặc toàn bộ bằng phương tiện điện tử, thông qua các thông điệp dữ liệu. Các quy định liên quan đến việc xác định đề nghị giao kết, xác định chấp nhận đề nghị giao kết, thời điểm có hiệu lực của đề nghị giao kết, của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng và thời điểm hình thành hợp đồng có một số điểm khác biệt so với quy định của pháp luật chung tùy thuộc vào dạng thông điệp dữ liệu và các hình thức điện tử khác. 

 Về hiệu lực và phạm vi của hợp đồng thương mại điện tử thì hợp đồng thương mại điện tử phát sinh hiệu lực tại thời điểm hợp đồng được giao kết, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác và tuân theo quy định của pháp luật chung về hợp đồng.  Đối với những trường hợp thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng không công bố rõ thời hạn trả lời đề nghị giao kết hợp đồng, nếu trong vòng 12 (mười hai) giờ kể từ khi gửi đề nghị giao kết hợp đồng, khách hàng không nhận được trả lời đề nghị giao kết hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng của khách hàng được coi là chấm dứt hiệu lực, nội dung này theo điều 20 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày16/5/2013 về thương mại điện tử cũng đã quy định:

Hợp đồng thương mại điện tử có phạm vi áp dụng trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước; trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại và các lĩnh vực khác do pháp luật quy định. Cần lưu ý hợp đồng thương mại điện tử không được áp dụng với việc cấp giấy tờ sở hữu hoặc giấy chứng nhận thân nhân như cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và các bất động sản khác, văn bản về thừa kế, giấy đăng ký kết hôn, quyết định ly hôn, giấy khai sinh, giấy khai tử, hối phiếu và các giấy tờ có giá khác.

Hoài Linh – P10