- Những nội dung cần chuẩn bị tốt trước khi tham gia phiên tòa:
+ Phải nghiên cứu cẩn thận, hiểu thật kỹ và nắm thật chắc hồ sơ vụ án: Đây là yêu cầu quan trọng nhất, không chỉ là đọc hết hồ sơ và mà yêu cầu phải hiểu kỹ. Bởi lẽ, có nắm kỹ hồ sơ vụ án thì mới biết những người tiến hành tố tụng đã hỏi đầy đủ chưa, còn thiếu cái gì, từ đó Kiểm sát viên mới biết mình cần hỏi nội dung gì. Có hiểu kỹ hồ sơ vụ án thì trong quá trình tranh luận, đối đáp với Luật sư và đối đáp với những người tham gia tố tụng khác, mới nắm được việc phải trích cứu tài liệu, chứng cứ nào, ở bút lục nào khi trả lời, đối đáp với các câu hỏi mà Luật sư và những người tham gia tố tụng khác đưa ra.
+ Phải nắm chắc và hiểu đúng các quy định của pháp luật về Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản áp dụng pháp luật khác có liên quan đến vụ án mà các cơ quan tiến hành tố tụng vận dụng khi giải quyết vụ án để đưa ra xét xử. Giúp KSV xác định được việc giải quyết vụ án tại phiên tòa đúng hay sai; quyền và nghĩa vụ của KSV và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà đã được thực hiện như thế nào? Những nội dung mà người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa đưa ra để đối đáp hoặc đề nghị áp dụng có chính xác không?...
+ Khi tham gia xét hỏi Kiểm sát viên phải ứng xử có văn hóa, lịch sự có tâm lý tự tin, bình tĩnh, chủ động và bản lĩnh vững vàng, nắm chắc từng bước để xét hỏi, chú ý chỉ hỏi những nội dung mà trước đó Hội đồng xét xử chưa hỏi hoặc đã hỏi nhưng không rõ ràng. Phải tập trung, chú ý lắng nghe, ghi chép đầy đủ và đánh dấu (hoặc gạch bỏ) vào đề cương xét hỏi những câu đã hỏi, câu chưa hỏi. Không hỏi lặp lại những câu mà HĐXX đã hỏi và câu trả lời đã rõ ràng. Chỉ khi thật cần thiết mới hỏi câu hỏi lặp lại để nhấn mạnh một vấn đề nào đó xét thấy rất quan trọng hoặc làm tiền đề để hỏi câu khác. KSV phải nắm được tâm lý, độ tuổi, giới tính, nhận thức xã hội và suy nghĩ của từng người tham gia tố tụng mà đưa ra câu hỏi cho phù hợp, tránh trường hợp để người tham gia tố tụng khi được hỏi nổi nóng, không kìm chế được.
(1). Kỹ năng xét hỏi bị cáo tại phiên tòa: Việc xét hỏi bị cáo tại phiên toà là nội dung quan trọng nhất trong việc xét hỏi tại phiên tòa. Bởi lẽ, bị cáo là đối tượng chính của việc xét xử, là người thực hiện hành vi phạm tội, biết rõ nhất những nội dung, các tình tiết liên quan đến vụ án và phải chịu hình phạt. Vì vậy, KSV cần chú trọng xét hỏi bị cáo để đạt được mục đích buộc tội của mình. Chú ý, nếu người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đặt những câu hỏi không liên quan đến việc giải quyết vụ án thì KSV phải đề nghị HĐXX yêu cầu họ tập trung đặt câu hỏi đúng quy định.
Kiểm sát viên hỏi bị cáo về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội và những tình tiết khác của vụ án (khoản 2 Điều 309 BLTTHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2025) để có cơ sở bổ sung, đề nghị trong phần luận tội. Khi hỏi, phải đặt câu hỏi trực tiếp liên quan đến việc làm sáng tỏ các tình tiết, nội dung của vụ án, tránh các câu hỏi dài dòng, khó hiểu và nặng về giải thích.
+ Trường hợp bị cáo im lặng không khai báo hoặc thay đổi lời khai tại Cơ quan điều tra thì phải giải thích, thuyết phục để bị cáo suy nghĩ trả lời. Nếu bị cáo vẫn thể hiện thái độ cố tình không khai báo thì căn cứ vào các tình huống đã dự kiến để nêu câu hỏi có tính sắc bén, từng bước đấu tranh hoặc chuyển sang hỏi bị cáo khác, không được mớm cung, tỏ thái độ cáu gắt, dọa dẫm. KSV chỉ công bố những lời khai khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 308 BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025). Đồng thời, chỉ cần công bố những lời khai có ý nghĩa chứng minh về các tình tiết của vụ án. Nếu lời khai của bị cáo mâu thuẫn với lời khai tại Cơ quan điều tra thì yêu cầu bị cáo khai rõ lý do có sự mâu thuẫn đó để làm cơ sở cho việc xem xét, đánh giá tính trung thực, khách quan. Việc xét hỏi đối với bị cáo mà trước đó đã bị cách ly được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 309 BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025).
Kiểm sát viên cần phải giữ trạng thái tâm lý bình tĩnh, không “đao to, búa lớn” đe dọa bị cáo khi xét hỏi; không cứng nhắc phụ thuộc vào đề cương xét hỏi mà phải linh hoạt, chủ động, nhanh nhạy đưa ra những câu hỏi phù hợp với tình hình diễn biến của phiên toà, trên cơ sở đó kịp thời bổ sung vào dự thảo luận tội nhằm bảo đảm cho việc luận tội có tính thuyết phục cao. Về xưng hô tại phiên tòa, KSV phải thể hiện đúng tư cách của người tiến hành tố tụng theo Quy tắc ứng xử của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp tại phiên tòa, phiên họp của tòa án ban hành kèm theo Quyết định số 46/QĐ-VKSTC ngày 20/02/2017 của Viện trưởng VKSND tối cao; Quy định về ứng xử và văn hóa công vụ trong ngành Kiểm sát nhân dân ban hành kèm theo Quyết định số 457/QĐ-VKSTC ngày 26/12/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
+ Đối với vụ án có bị cáo chối tội, vụ án có nhiều bị cáo khác là đồng phạm với bị cáo chủ mưu, cầm đầu, chỉ đạo, KSV phải chủ động phối hợp với chủ tọa phiên tòa để cách ly từng bị cáo ra trước hoặc đưa ra phương án xét hỏi cho phù hợp, khi xét hỏi có thể xét hỏi những bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải trước, sau cùng mới hỏi đến bị cáo phản cung hoặc chối tội không có căn cứ. Đối với bị cáo chối tội, khi xét hỏi phải có sự đấu tranh trên cơ sở các chứng cứ và kết quả xét hỏi các bị cáo đã xét hỏi trước đó, ví dụ: Bị cáo với vai trò chủ mưu, chỉ đạo nhưng không nhận tội thì phải xét hỏi bị cáo thực hành trước. Đối với những bị cáo khai báo thành khẩn, nhận tội thì cũng cần chọn bị cáo có tầm ảnh hưởng đối với những bị cáo khác để xét hỏi trước, làm tiền đề cho các bị cáo đồng phạm khác suy nghĩ để khai.
Trong trường hợp cần thiết phải xét hỏi bổ sung để làm rõ thêm về một tình tiết nào đó thì KSV đề nghị chủ tọa phiên tòa quyết định việc xét hỏi (Điều 318 BLTTHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2025) để làm rõ.
Trước khi kết thúc phần xét hỏi bị cáo, KSV phải đưa ra các câu hỏi “chốt lại” để bị cáo khẳng định lời khai của mình là trung thực, chính xác và tự xác định, thừa nhận hành vi của mình là phạm tội. Nếu bị cáo không thừa nhận thì có thể tiếp tục xét hỏi để làm rõ những vấn đề không thừa nhận đó. Đối với bị cáo cố tình chối tội, không thừa nhận mà KSV, HĐXX đã xét hỏi kỹ thì có thể kết thúc phần xét hỏi mà không cần xét hỏi thêm nữa.
(2) Kỹ năng xét hỏi đối với bị hại, đương sự hoặc đại diện của họ: Theo quy định tại Điều 310 BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) thì bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ được trình bày trước về những tình tiết của vụ án có liên quan đến họ. Sau đó, HĐXX, KSV, người bào chữa và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự hỏi thêm về những điểm mà họ trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn. Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo có thể hỏi bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ về các vấn đề có liên quan đến bị cáo. Vì vậy, KSV phải chú ý lắng nghe, ghi chép tất cả ý kiến, những câu hỏi và trả lời. Đối chiếu với dự thảo đề cương xét hỏi đã chuẩn bị, nếu điểm nào chưa rõ thì KSV có thể hỏi thêm để làm rõ, tránh hỏi trùng lặp.
Về phương pháp hỏi, Kiểm sát viên cần đặt câu hỏi ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu và có liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng này.
(3). Kỹ năng xét hỏi người làm chứng: Tại phiên tòa, đối với những vụ án có nhiều người làm chứng, HĐXX phải tách riêng từng người để hỏi nhằm đảm bảo tính khách quan trong lời khai của họ, không để lời khai của người làm chứng này ảnh hưởng đến lời khai của người làm chứng khác. Nếu Hội đồng xét xử không thực hiện vấn đề này thì KSV đề nghị thực hiện đúng quy định. Việc lựa chọn người làm chứng nào để hỏi trước, người làm chứng nào để hỏi sau cũng có ý nghĩa trong việc làm rõ sự thật khách quan về những tình tiết có liên quan của vụ án.
Cũng như những người tham gia tố tụng khác, người làm chứng thường được HĐXX cho trình bày trước những điều mà họ biết về các tình tiết của vụ án, về mối quan hệ của họ với bị cáo và các đương sự khác. Vì vậy, Kiểm sát viên phải chú ý lắng nghe, ghi chép lại những vấn đề có liên quan, đặc biệt là các tình tiết có ý nghĩa trong việc buộc tội và gỡ tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo mà người làm chứng cung cấp. Sau khi HĐXX hỏi, nếu thấy điểm nào chưa được làm rõ thì KSV tiếp tục hỏi, yêu cầu người làm chứng trình bày làm rõ thêm. Trường hợp lời khai của những người làm chứng có mâu thuẫn với nhau hoặc có mâu thuẫn với lời khai của bị hại thì KSV đề nghị Hội đồng xét xử cho phép được gọi những người này để đối chất ngay tại phiên tòa nhằm làm sáng tỏ những tình tiết còn mâu thuẫn.
Khi tham gia xét hỏi người làm chứng, cần chú ý trạng thái tâm lý của họ để đặt câu hỏi hoặc nêu vấn đề thật cụ thể giúp họ dễ trả lời. Đối với người làm chứng là người dưới 18 tuổi thì tùy trường hợp có thể yêu cầu cha, mẹ, người đỡ đầu hoặc thầy giáo, cô giáo giúp đỡ để hỏi. Khi người làm chứng xuất trình chứng cứ, tài liệu mới tại phiên tòa, KSV cần kiểm tra, xét hỏi về nguồn gốc nội dung để có kết luận về tính hợp pháp và tính có căn cứ của chứng cứ, tài liệu đó. Trường hợp chưa đủ điều kiện kết luận mà chứng cứ, tài liệu mới đó có thể làm thay đổi nội dung, tính chất vụ án thì Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tạm dừng hoặc hoãn phiên tòa để xác minh.
Theo quy định tại các Điều 312, 314 BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025), trong quá trình tham gia xét hỏi người làm chứng tại phiên tòa, KSV có thể đề nghị HĐXX, người bào chữa và những người khác tham gia phiên tòa đến xem xét tại chỗ những vật chứng có liên quan đến vụ án nhưng không thể đưa đến phiên tòa được hoặc xem xét tại chỗ nơi đã xảy ra tội phạm hoặc những địa điểm khác có liên quan đến vụ án.
(4). Kỹ năng hỏi người giám định, người định giá tài sản và người khác: Trường hợp cần thiết, phiên tòa có triệu tập người giám định, người định giá tài sản thì KSV chú ý chuẩn bị những nội dung liên quan đến việc giám định, định giá tài sản để hỏi cho đúng nội dung. Khi trình bày, người giám định, người định giá tài sản có quyền giải thích, bổ sung về kết luận giám định, định giá tài sản, căn cứ đưa ra kết luận giám định, định giá tài sản. KSV cần chú ý để hỏi rõ những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn trong kết luận giám định, định giá tài sản hoặc có mâu thuẫn với những tình tiết khác của vụ án./.
Tác giả: Viết Sĩ - VKSND khu vực 1 - Đà Nẵng.
+ Phải nghiên cứu cẩn thận, hiểu thật kỹ và nắm thật chắc hồ sơ vụ án: Đây là yêu cầu quan trọng nhất, không chỉ là đọc hết hồ sơ và mà yêu cầu phải hiểu kỹ. Bởi lẽ, có nắm kỹ hồ sơ vụ án thì mới biết những người tiến hành tố tụng đã hỏi đầy đủ chưa, còn thiếu cái gì, từ đó Kiểm sát viên mới biết mình cần hỏi nội dung gì. Có hiểu kỹ hồ sơ vụ án thì trong quá trình tranh luận, đối đáp với Luật sư và đối đáp với những người tham gia tố tụng khác, mới nắm được việc phải trích cứu tài liệu, chứng cứ nào, ở bút lục nào khi trả lời, đối đáp với các câu hỏi mà Luật sư và những người tham gia tố tụng khác đưa ra.
+ Phải nắm chắc và hiểu đúng các quy định của pháp luật về Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản áp dụng pháp luật khác có liên quan đến vụ án mà các cơ quan tiến hành tố tụng vận dụng khi giải quyết vụ án để đưa ra xét xử. Giúp KSV xác định được việc giải quyết vụ án tại phiên tòa đúng hay sai; quyền và nghĩa vụ của KSV và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà đã được thực hiện như thế nào? Những nội dung mà người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa đưa ra để đối đáp hoặc đề nghị áp dụng có chính xác không?...
+ Khi tham gia xét hỏi Kiểm sát viên phải ứng xử có văn hóa, lịch sự có tâm lý tự tin, bình tĩnh, chủ động và bản lĩnh vững vàng, nắm chắc từng bước để xét hỏi, chú ý chỉ hỏi những nội dung mà trước đó Hội đồng xét xử chưa hỏi hoặc đã hỏi nhưng không rõ ràng. Phải tập trung, chú ý lắng nghe, ghi chép đầy đủ và đánh dấu (hoặc gạch bỏ) vào đề cương xét hỏi những câu đã hỏi, câu chưa hỏi. Không hỏi lặp lại những câu mà HĐXX đã hỏi và câu trả lời đã rõ ràng. Chỉ khi thật cần thiết mới hỏi câu hỏi lặp lại để nhấn mạnh một vấn đề nào đó xét thấy rất quan trọng hoặc làm tiền đề để hỏi câu khác. KSV phải nắm được tâm lý, độ tuổi, giới tính, nhận thức xã hội và suy nghĩ của từng người tham gia tố tụng mà đưa ra câu hỏi cho phù hợp, tránh trường hợp để người tham gia tố tụng khi được hỏi nổi nóng, không kìm chế được.
(1). Kỹ năng xét hỏi bị cáo tại phiên tòa: Việc xét hỏi bị cáo tại phiên toà là nội dung quan trọng nhất trong việc xét hỏi tại phiên tòa. Bởi lẽ, bị cáo là đối tượng chính của việc xét xử, là người thực hiện hành vi phạm tội, biết rõ nhất những nội dung, các tình tiết liên quan đến vụ án và phải chịu hình phạt. Vì vậy, KSV cần chú trọng xét hỏi bị cáo để đạt được mục đích buộc tội của mình. Chú ý, nếu người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đặt những câu hỏi không liên quan đến việc giải quyết vụ án thì KSV phải đề nghị HĐXX yêu cầu họ tập trung đặt câu hỏi đúng quy định.
Kiểm sát viên hỏi bị cáo về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội và những tình tiết khác của vụ án (khoản 2 Điều 309 BLTTHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2025) để có cơ sở bổ sung, đề nghị trong phần luận tội. Khi hỏi, phải đặt câu hỏi trực tiếp liên quan đến việc làm sáng tỏ các tình tiết, nội dung của vụ án, tránh các câu hỏi dài dòng, khó hiểu và nặng về giải thích.
+ Trường hợp bị cáo im lặng không khai báo hoặc thay đổi lời khai tại Cơ quan điều tra thì phải giải thích, thuyết phục để bị cáo suy nghĩ trả lời. Nếu bị cáo vẫn thể hiện thái độ cố tình không khai báo thì căn cứ vào các tình huống đã dự kiến để nêu câu hỏi có tính sắc bén, từng bước đấu tranh hoặc chuyển sang hỏi bị cáo khác, không được mớm cung, tỏ thái độ cáu gắt, dọa dẫm. KSV chỉ công bố những lời khai khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 308 BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025). Đồng thời, chỉ cần công bố những lời khai có ý nghĩa chứng minh về các tình tiết của vụ án. Nếu lời khai của bị cáo mâu thuẫn với lời khai tại Cơ quan điều tra thì yêu cầu bị cáo khai rõ lý do có sự mâu thuẫn đó để làm cơ sở cho việc xem xét, đánh giá tính trung thực, khách quan. Việc xét hỏi đối với bị cáo mà trước đó đã bị cách ly được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 309 BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025).
Kiểm sát viên cần phải giữ trạng thái tâm lý bình tĩnh, không “đao to, búa lớn” đe dọa bị cáo khi xét hỏi; không cứng nhắc phụ thuộc vào đề cương xét hỏi mà phải linh hoạt, chủ động, nhanh nhạy đưa ra những câu hỏi phù hợp với tình hình diễn biến của phiên toà, trên cơ sở đó kịp thời bổ sung vào dự thảo luận tội nhằm bảo đảm cho việc luận tội có tính thuyết phục cao. Về xưng hô tại phiên tòa, KSV phải thể hiện đúng tư cách của người tiến hành tố tụng theo Quy tắc ứng xử của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp tại phiên tòa, phiên họp của tòa án ban hành kèm theo Quyết định số 46/QĐ-VKSTC ngày 20/02/2017 của Viện trưởng VKSND tối cao; Quy định về ứng xử và văn hóa công vụ trong ngành Kiểm sát nhân dân ban hành kèm theo Quyết định số 457/QĐ-VKSTC ngày 26/12/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
+ Đối với vụ án có bị cáo chối tội, vụ án có nhiều bị cáo khác là đồng phạm với bị cáo chủ mưu, cầm đầu, chỉ đạo, KSV phải chủ động phối hợp với chủ tọa phiên tòa để cách ly từng bị cáo ra trước hoặc đưa ra phương án xét hỏi cho phù hợp, khi xét hỏi có thể xét hỏi những bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải trước, sau cùng mới hỏi đến bị cáo phản cung hoặc chối tội không có căn cứ. Đối với bị cáo chối tội, khi xét hỏi phải có sự đấu tranh trên cơ sở các chứng cứ và kết quả xét hỏi các bị cáo đã xét hỏi trước đó, ví dụ: Bị cáo với vai trò chủ mưu, chỉ đạo nhưng không nhận tội thì phải xét hỏi bị cáo thực hành trước. Đối với những bị cáo khai báo thành khẩn, nhận tội thì cũng cần chọn bị cáo có tầm ảnh hưởng đối với những bị cáo khác để xét hỏi trước, làm tiền đề cho các bị cáo đồng phạm khác suy nghĩ để khai.
Trong trường hợp cần thiết phải xét hỏi bổ sung để làm rõ thêm về một tình tiết nào đó thì KSV đề nghị chủ tọa phiên tòa quyết định việc xét hỏi (Điều 318 BLTTHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2025) để làm rõ.
Trước khi kết thúc phần xét hỏi bị cáo, KSV phải đưa ra các câu hỏi “chốt lại” để bị cáo khẳng định lời khai của mình là trung thực, chính xác và tự xác định, thừa nhận hành vi của mình là phạm tội. Nếu bị cáo không thừa nhận thì có thể tiếp tục xét hỏi để làm rõ những vấn đề không thừa nhận đó. Đối với bị cáo cố tình chối tội, không thừa nhận mà KSV, HĐXX đã xét hỏi kỹ thì có thể kết thúc phần xét hỏi mà không cần xét hỏi thêm nữa.
(2) Kỹ năng xét hỏi đối với bị hại, đương sự hoặc đại diện của họ: Theo quy định tại Điều 310 BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) thì bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ được trình bày trước về những tình tiết của vụ án có liên quan đến họ. Sau đó, HĐXX, KSV, người bào chữa và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự hỏi thêm về những điểm mà họ trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn. Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo có thể hỏi bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ về các vấn đề có liên quan đến bị cáo. Vì vậy, KSV phải chú ý lắng nghe, ghi chép tất cả ý kiến, những câu hỏi và trả lời. Đối chiếu với dự thảo đề cương xét hỏi đã chuẩn bị, nếu điểm nào chưa rõ thì KSV có thể hỏi thêm để làm rõ, tránh hỏi trùng lặp.
Về phương pháp hỏi, Kiểm sát viên cần đặt câu hỏi ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu và có liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng này.
(3). Kỹ năng xét hỏi người làm chứng: Tại phiên tòa, đối với những vụ án có nhiều người làm chứng, HĐXX phải tách riêng từng người để hỏi nhằm đảm bảo tính khách quan trong lời khai của họ, không để lời khai của người làm chứng này ảnh hưởng đến lời khai của người làm chứng khác. Nếu Hội đồng xét xử không thực hiện vấn đề này thì KSV đề nghị thực hiện đúng quy định. Việc lựa chọn người làm chứng nào để hỏi trước, người làm chứng nào để hỏi sau cũng có ý nghĩa trong việc làm rõ sự thật khách quan về những tình tiết có liên quan của vụ án.
Cũng như những người tham gia tố tụng khác, người làm chứng thường được HĐXX cho trình bày trước những điều mà họ biết về các tình tiết của vụ án, về mối quan hệ của họ với bị cáo và các đương sự khác. Vì vậy, Kiểm sát viên phải chú ý lắng nghe, ghi chép lại những vấn đề có liên quan, đặc biệt là các tình tiết có ý nghĩa trong việc buộc tội và gỡ tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo mà người làm chứng cung cấp. Sau khi HĐXX hỏi, nếu thấy điểm nào chưa được làm rõ thì KSV tiếp tục hỏi, yêu cầu người làm chứng trình bày làm rõ thêm. Trường hợp lời khai của những người làm chứng có mâu thuẫn với nhau hoặc có mâu thuẫn với lời khai của bị hại thì KSV đề nghị Hội đồng xét xử cho phép được gọi những người này để đối chất ngay tại phiên tòa nhằm làm sáng tỏ những tình tiết còn mâu thuẫn.
Khi tham gia xét hỏi người làm chứng, cần chú ý trạng thái tâm lý của họ để đặt câu hỏi hoặc nêu vấn đề thật cụ thể giúp họ dễ trả lời. Đối với người làm chứng là người dưới 18 tuổi thì tùy trường hợp có thể yêu cầu cha, mẹ, người đỡ đầu hoặc thầy giáo, cô giáo giúp đỡ để hỏi. Khi người làm chứng xuất trình chứng cứ, tài liệu mới tại phiên tòa, KSV cần kiểm tra, xét hỏi về nguồn gốc nội dung để có kết luận về tính hợp pháp và tính có căn cứ của chứng cứ, tài liệu đó. Trường hợp chưa đủ điều kiện kết luận mà chứng cứ, tài liệu mới đó có thể làm thay đổi nội dung, tính chất vụ án thì Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tạm dừng hoặc hoãn phiên tòa để xác minh.
Theo quy định tại các Điều 312, 314 BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025), trong quá trình tham gia xét hỏi người làm chứng tại phiên tòa, KSV có thể đề nghị HĐXX, người bào chữa và những người khác tham gia phiên tòa đến xem xét tại chỗ những vật chứng có liên quan đến vụ án nhưng không thể đưa đến phiên tòa được hoặc xem xét tại chỗ nơi đã xảy ra tội phạm hoặc những địa điểm khác có liên quan đến vụ án.
(4). Kỹ năng hỏi người giám định, người định giá tài sản và người khác: Trường hợp cần thiết, phiên tòa có triệu tập người giám định, người định giá tài sản thì KSV chú ý chuẩn bị những nội dung liên quan đến việc giám định, định giá tài sản để hỏi cho đúng nội dung. Khi trình bày, người giám định, người định giá tài sản có quyền giải thích, bổ sung về kết luận giám định, định giá tài sản, căn cứ đưa ra kết luận giám định, định giá tài sản. KSV cần chú ý để hỏi rõ những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn trong kết luận giám định, định giá tài sản hoặc có mâu thuẫn với những tình tiết khác của vụ án./.
Tác giả: Viết Sĩ - VKSND khu vực 1 - Đà Nẵng.